VANTHONGLAW - Giai đoạn tiền hợp đồng là giai đoạn bắt đầu từ khi một bên thể hiện ý định muốn xác lập hợp đồng (như đàm phán hợp đồng hay gửi đề nghị giao kết hợp đồng) đến khi hợp đồng được giao kết. Trong giai đoạn này các bên chưa chịu sự ràng buộc bởi hợp đồng mà các bến muốn xác lập nhưng giữa các bên đã hình thành một mối quan hệ pháp lý đặc biệt thông qua việc tìm hiểu lẫn nhau và đàm phán các nội dung cụ thể của hợp đồng.
Bài viết liên quan!
>>> Con gái đã lấy chồng, có quyền hưởng thừa kế của bố mẹ ruột không?
>>> Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành
>>> Tiếp nhận Luật La Mã trong việc xây dựng chế định vật quyền ở Việt Nam hiện nay
>>> TP. HCM thống nhất mở cửa kinh tế theo 3 giai đoạn từ sau ngày 15/9
>>> Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo Pháp luật Việt Nam hiện nay
Nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng
Tại Điều 387 của BLDS 2015 quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin và nghĩa vụ bảo mật thông tin trong giai đoạn tiền hợp đồng, cụ thể:
“1. Trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết.
2. Trường hợp một bên nhận được thông tin bí mật của bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng thì có trách nhiệm bảo mật thông tin và không sử dụng thông tin đó cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác.
3. Bên vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.”
Nghĩa vụ cung cấp thông tin
Nghĩa vụ cung cấp thông tin là một nghĩa vụ quan trọng để bảo đảm các bên cần phải có đầy đủ các thông tin cần thiết liên quan đến hợp đồng để có thể đưa ra quyết định chính xác nhất đối với việc giao kết hợp đồng. Việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin được coi là một biểu hiện cụ thể của nguyên tắc thiện chí, trung thực trong giai đoạn đàm phán và giao kết hợp đồng.
Hiện nay, ngoài bộ luật dân sự 2015 thì các luật chuyên ngành khác cũng có những quy định cụ thể về nghĩa vụ “Bảo mật thông tin”
Trong hoạt động nhượng quyền thương mại:
+ 4. Giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền, kể cả sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm dứt; (K4, Đ.289 Luật Thương Mại 2005)
+ c) Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó; (mục c) khoản 3 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ 2005)
+ b) Tiết lộ, sử dụng thông tin bí mật trong kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó. (mục b) khoản 1 Điều 45 Luật Canh Tranh 2018)
Các nghĩa vụ bảo mất được nói trên chỉ nằm trong phạm vị được coi là bí mật kinh doanh. Và nguyên tắc bồi thường thiệt hại vẫn dựa trên Bộ Luật Dân sự.
Hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý
Nghiêm cấp luật sư tiết lộ thông tin vụ việc về khách hàng trong quá trình hành nghề. (
Hiện nay, chế tài pháp luật được đưa ra để bảo vệ bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng chưa thật sự rõ ràng. Do đó, để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng của mình, hai bên có thể ký thỏa thuận về bảo mật thông tin trong giai đoạn này.
Quang Long
BẢO VỆ TỐT NHẤT QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA THÂN CHỦ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét